Để chào mừng thành công của cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, một sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam thực hiện triển lãm: “Quốc hội Việt Nam – Những chặng đường lịch sử”. Triển lãm gồm 100 bức ảnh tư liệu có giá trị, phản ánh chặng đường hoạt động vẻ vang của Quốc hội trong suốt 12 nhiệm kỳ qua. |
Nội dung cuộc triển lãm giới thiệu quá trình hoạt động của Quốc hội Việt Nam qua 12 khóa: 1. QUỐC HỘI KHÓA I (1946-1960). Sau khi khởi nghĩa, giành độc lập, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức cuộc bầu cử khóa 1, ngày 6-1-1946, gồm 403 đại biểu. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I đã công nhận Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Với 12 kỳ họp, Quốc hội khóa I (1946-1960) đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng Nhà nước dân chủ cộng hòa. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã xem xét và thông qua bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, 11 đạo luật và 50 nghị quyết, phê chuẩn Hiệp định Giơ-ne-vơ. Quốc hội khóa I đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, đảm bảo chính sách “người cày có ruộng”, thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. 2. QUỐC HỘI KHÓA II (1960-1964) Quốc hội khóa II được bầu cử ngày 8-5-1960, gồm 453 đại biểu (362 đại biểu được bầu, 91 đại biểu khóa I của miền Nam được lưu nhiệm). Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II bầu ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm 21 ủy viên chính thức, 5 ủy viên dự khuyết, do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. 3. QUỐC HỘI KHÓA III (1964-1971) được bầu ngày 26-4-1964, gồm 453 đại biểu (366 đại biểu được bầu, 87 đại biểu khóa I của miền Nam được lưu niệm). Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm kỳ Quốc hội khóa III kéo dài 7 năm và có 7 kỳ họp; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 lần, thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và tổ chức hành chính, nhân sự… quan trọng của đất nước. 4. QUỐC HỘI KHÓA IV (1971-1975), có 420 đại biểu, được bầu ngày 11-4-1971 với nhiệm kỳ 4 năm và có 5 kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh là Chủ tịch, có 5 Phó Chủ tịch, 1 Tổng Thư ký, 17 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. 5. QUỐC HỘI KHÓA V (1975-1976) có 424 đại biểu, được bầu ngày 6-4-1975, hoạt động trong thời gian gần 2 năm (1975-1976) và chỉ có 2 kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, có 6 Phó Chủ tịch, 11 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết. Một trong những sự kiện quan trọng nhất của Quốc hội khóa này là thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả của Hội nghị Hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất. 6. QUỐC HỘI KHÓA VI (1976-1981) – Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được bầu ngày 25-4-1976, với 492 đại biều. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Quốc hội khóa VI có 7 Phó Chủ tịch, 1 Tổng Thư ký, 13 Ủy viên chính thức, 2 Ủy viên dự khuyết. Trong nhiệm kỳ 5 năm (1976-1981), với 7 kỳ họp, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: đổi tên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Sài Gòn Gia Định thành TP. Hồ Chí Minh và thông qua Hiến pháp năm 1980. 7. QUỐC HỘI KHÓA VII (1981-1987) được bầu ngày 26-4-1981, gồm 496 đại biểu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 12 thành viên đảm nhận chức năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Quốc hội khóa VII họp 12 kỳ, ban hành 10 đạo luật và 35 nghị quyết. Tại nhiệm kỳ này, lần đầu tiên Quốc hội nước ta ban hành Bộ luật Hình sự. Quốc hội đã tăng cường triển khai thực hiện chức năng giám sát và chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. 8. QUỐC HỘI KHÓA VIII (1987-1992) được bầu ngày 19-4-1987, có 496 đại biểu. Đồng chí Lê Quang Đạo được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Đồng chí Võ Chí Công được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước gồm 15 thành viên. Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 ngày 15-4-1992. Đây là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội VI của Đảng đề ra. Quốc hội khóa VIII có 11 kỳ họp, ban hành 2 bộ luật, 25 đạo luật và Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. 9. QUỐC HỘI KHÓA IX (1992-1997) được bầu ngày 19-7-1992, gồm có 395 đại biểu, nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm chủ tịch Quốc hội, 3 Phó Chủ tịch và 9 Ủy viên Ban Thường vụ. Quốc hội khóa IX đã đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết của Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Tại các kỳ họp, quốc hội đã tập trung thời gian, trí tuệ để đẩy mạnh hoạt động lập pháp với kết quả là 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý hình thành môi trường ổn định, thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường hoạt động đối ngoại. 10. QUỐC HỘI KHÓA X (1997-2002) gồm 450 đại biểu, được bầu ngày 20-7-1997. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có 14 thành viên, gồm Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, 5 Phó Chủ tịch và 8 Ủy viên. Tại kỳ họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Văn An được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Trong nhiệm kỳ 5 năm, Quốc hội tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp, đẩy mạnh giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng trong việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu qua quản lý nhà nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. 11. QUỐC HỘI KHÓA XI (2002-2007) được bầu ngày 19-5-2002, có 498 đại biểu. Tại kỳ họp thứ nhất, đồng chí Nguyễn Văn An được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Quốc hội có 3 Phó Chủ tịch và 9 thành viên Ban Thường vụ. Tại kỳ họp thứ 9, ông Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Tính đến hết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XI đã thông quan 44 văn bản luật và 26 pháp lệnh. Nhiều vấn đề quan trọng của đất nước như: Xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, xây dựng Đường Hồ Chí Minh, xây dựng nhà máy Lọc dầu Dung Quất… đã được Quốc hội xem xét, quyết định, góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tháng 6-2003, Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát nhằm cụ thể hóa chức năng giám sát tối cao của Quốc hội. Tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước ta đã phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoàn tất thủ tục pháp lý quan trọng cuối cùng để nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO. 12. QUỐC HỘI KHÓA XII (2007-2012) được bầu ngày 20 tháng 5 năm 2007, gồm 493 đại biểu. Quốc hội khóa XII là Quốc hội của thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội khóa XII 12 nhiệm kỳ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội Việt Nam đã góp phân quan trọng vào những thành tựu kinh tế, văn hóa, giáo dục của đất nước, đặc biệt là hoàn thành tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan lập pháp của nước CHXHCN Việt Nam. |