Giới thiệu chung

Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam nằm trung tâm thành phố Thái Nguyên, cách thủ đô Hà Nội 80 km, đi dọc theo quốc lộ 3 về phía Bắc.Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam được thành lập năm 1960. Thời kỳ đầu mang tên Bảo tàng Việt Bắc, thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Bắc.

Năm 1976, Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về Bộ Văn hoá – Thông tin quản lý. Từ đây, Bảo tàng chuyển hướng nội dung hoạt động từ Bảo tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc. Tại quyết định số 508/QĐVH, ngày 31/3/1990 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa đã phê duyệt đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam.

Là một Bảo tàng trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam không chỉ là một công trình kiến trúc to, đẹp mà còn là một trung tâm văn hoá lớn với chức năng, nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền và phát huy vốn di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam trên phạm vi cả nước

Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển. 50 năm qua Bảo tàng đã tiến hành hàng trăm cuộc nghiên cứu sưu tầm, trên địa bàn cả nước, góp phần nâng tổng số hiện vật trong kho cơ sở lên gần 30.000 tài liệu hiện vật có giá trị. Đó chính là cơ sở quan trọng để Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà, ngoài trời, phục vụ tốt công chúng tham quan trong nước và quốc tế.

Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam còn được biết đến với một công trình kiến trúc được giải thưởng Hồ Chí Minh, toạ lạc trên diện tích đất 40.000m2, ngay cạnh dòng sông cầu thơ mộng, là điểm giao nhau của các con đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn, cách mạng tháng 8.

Hiện nay, hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hoá vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với cảnh quan môi sinh từng vùng cư trú. Bao gồm một gian long trọng tại sảnh A nhà Bảo tàng và hệ thống 5 phòng trưng bày.

Phòng số 1: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.

Phòng số 2: Trưng bày và giới thiệu các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo.

Phòng số 3: Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn…

Phòng số 4: Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối lớn, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn –  Khơ Me.

Phòng số 5: Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.

Với trên 4.500 tài liệu hiện vật gốc, phim ảnh, 735 tài liệu khoa học bổ trợ, hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam được xây dựng theo phương pháp tiến tiến, hiện đại. Các thiết bị tin học điện tử và phần mềm âm thanh đã tái hiện được cảnh quan cư trú và đời sống văn hoá 54 tộc người, hấp dẫn công chúng tham quan.

Ngoài phần trưng bày cố định, mỗi năm bảo tàng tiến hành hàng chục cuộc triển lãm lưu động trên địa bàn cả nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân.

Cùng với các hoạt động Bảo tàng, cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị thường xuyên nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp viện về lĩnh vực văn hoá dân tộc, nhằm phục vụ tốt công tác và nâng cao kỹ năng chuyên môn. Bên cạnh đó, các hoạt động giảng dạy chuyên nghành, công tác toạ đàm, trao đổi, học tập kinh nghiệm cũng được cán bộ bảo tàng quan tâm, tham dự, góp phần giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hoá tộc người ngày càng sâu rộng.

Hiện nay, hệ thống trưng bày ngoài trời Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam đã vào giai đoạn hoàn thiện. Không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du – Bắc Bộ, Miền Trung – Ven biển, Trường Sơn – Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ đã định hình cơ bản. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách.

SẢNH A – GIAN LONG TRỌNG
Gian long trọng của Bảo tàng là nơi đón khách. Tại đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh lớn của Bảo tàng, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, đại diện cho ba miền Bắc – Trung – Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với các cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu lớn được tạc bằng gỗ mô phỏng các lễ hội tiêu biểu truyền thống các tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ.