Chợ Nón trong sương đêm

Trong lúc các ngành tiểu thủ công nghiệp ở Thừa Thiên- Huế đang gặp nhiều khó khăn thì chợ nón Huế truyền thống “độc nhất vô nhị” tại làng Dạ Lê vẫn duy trì, thu hút rất đông bà con ở các làng nón nổi tiếng của Huế đến đây giao thương. Từ sớm tinh mơ, chợ nón đã nhộn nhịp kẻ bán người mua.

Kiểm tra nón trước khi bày bán tại chợ Dạ Lê

Tôi tìm về Chợ nón Dạ Lê, xã Thủy Vân, thị xã Hương Thủy (Thừa Thiên – Huế) từ lúc trời còn tờ mờ sáng nhưng không khí chợ đã khá sôi động. Bên chiếc cầu bê tông nhỏ bắt qua dòng sông Như Ý các chị, các mẹ đã đến tự lúc nào. Vòng trong vòng ngoài chợ toàn nón, tiếng nói cười lao xao.
Đóng tại chợ nón này đã hơn 40 năm, bà Nguyễn Thị Thí quá quen với công việc bán mua này. Bà kể, từ khi mới 14 tuổi đã theo chân mẹ đến đây.  “Tui chằm nón chằm nón bài thơ  ni  từ lúc 15 tuổi cho đến chừ 70 tuổi rồi vẫn còn chằm. Nghề này không làm giàu được, nhưng nếu chịu khó cuộc sống cũng không đến nỗi chật vật”.
Ngày trước chợ nón nằm ở tả ngạn sông Như Ý, thuộc xã Phú Mỹ huyện Phú Vang. Dần dần chợ đã dời hẳn sang bờ bên kia thuộc xã Thủy Vân thị xã Hương Thủy. Ngày ngày, những người buôn nón từ thành phố Huế về bằng xe máy, nếu thu nón nhiều, họ thuê xe đò chở lên Huế. Lái nón nam nữ ăn mặc sang trọng, túi xách căng phồng với hàng chục triệu đồng, bán mua trả tiền mặt sòng phẳng. Thậm chí, họ còn tạm ứng tiền cho người làm nón đong gạo, mua vật dụng, kỳ sau trả bằng nón.
Bà Nguyễn Thị Cườm, làng nón Tây Hồ kể:  Nghề này đòi hỏi tính cần cù, nhẫn nại, rất phù hợp với tính cách của người phụ nữ Huế. Tuy công việc khá vất vả nhưng có được đồng ra đồng vào, lại góp phần gìn giữ được nét đẹp truyền thống của chiếc nón bài thơ xứ Huế.
Nón lá Huế, đặc biệt là nón bài thơ sở dĩ được nhiều du khách ưa chuộng bởi vì nó không chỉ là chiếc nón đơn thuần mà là một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Để có được chiếc nón ưng ý đưa ra thị trường, người làm nón Huế phải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự cần mẫn, khéo léo. Từ chọn khung, uốn vành, lợp lá, cắt hoa văn, đến chằm hoàn thiện chiếc nón. Mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Làm khung chuốt vành là công đoạn đầu tiên quyết định độ khum, độ tròn, hình dáng, kích cỡ của chiếc nón. Khung nón được làm bằng gỗ nhẹ. Vành nón được làm bằng thân cây lồ ô, cây mung có rất nhiều ở Huế. Mỗi chiếc nón từ 15 – 16 vành, mà xưa nay nhiều người vẫn ví như “16 vành trăng”.
Theo lời kể của người làm nón lâu năm, thời gian trước người dân làm nón muốn mua vật dụng làm nón đều phải cuốc bộ lên chợ Đông Ba, nhà nào gần nhất cũng mất hai giờ cả đi lẫn về. Thế nhưng, bây giờ tại chợ nón Dạ Lê đã có đầy đủ các loại kim chỉ, lá nón, soài, dầu nón, quai nón. Người làm nón chẳng phải đi đâu xa. Bán xong nón, người thợ lại mua vật liệu về chằm.
Chuẩn bị nguyên liệu làm nón
Từ chợ Dạ Lê, chiếc nón bài thơ xứ Huế đi khắp mọi miền đất nước, ra cả nước ngoài. Tuy nhiên để chợ nón được duy trì thường xuyên bà con tiểu thương và những người làm nón lâu năm kiến nghị các cấp chính quyền tạo điều kiện để bà con vay vốn ưu đãi, mở rộng gian hàng. Anh Lê Đình Y một trong những người buôn bán nón lâu  năm ở  chợ Dạ Lê tâm sự: Nghề làm nón bài thơ  đòi hỏi sự tỉ mỉ, nhưng thu nhập ít ỏi, vì vậy mà rất nhiều thanh niên ở thôn quê không mặn mà giữ nghề. Nguyện vọng của bà con làm nón chúng tôi là sớm được Hiệp hội nón Huế cho vay thêm vốn để mở rộng gian hàng.
Dẫu bây giờ, trên đường phố Huế, nón lá không còn rợp bóng như ngày xưa, nhưng nón Huế vẫn là một nét văn hóa, một nét duyên không thể thiếu trong đời sống văn hóa Huế.
Nguồn: Trang Hạ http://daidoanket.vn