Trong dòng chảy lịch sử 65 năm xây dựng và hoạt động (1960-2025), giai đoạn 1990-2010 là dấu mốc đặc biệt của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Đây là giai đoạn bảo tàng thay đổi nhiệm vụ, đổi mới tư duy, bứt phá trong công tác trưng bày và mở rộng các hoạt động triển lãm lưu động khắp mọi miền đất nước.
Đổi tên – Mở rộng sứ mệnh (1990)
Xuất phát từ yêu cầu lịch sử, nguyện vọng của đồng bào các dân tộc, sự ủng hộ của giới khoa học cùng điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, ngày 31/3/1990 Bộ Văn hóa – Thông tin đã ban hành Quyết định số 508/QĐ-BVH-TT, nâng cấp Bảo tàng Việt Bắc thành Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Việc đổi tên không đơn thuần là thay đổi danh xưng, mà là bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển lâu dài của bảo tàng.
Từ phạm vi vùng Việt Bắc, bảo tàng mở rộng hoạt động trên toàn quốc, nhận sứ mệnh mới: nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày và tuyên truyền di sản văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam tới công chúng trong nước và quốc tế. Trực thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin và trở thành một trong bảy bảo tàng quốc gia, bảo tàng khẳng định vai trò trung tâm văn hóa lớn của khu vực phía Bắc và cả nước, đồng thời đối mặt với nhiều trách nhiệm và thách thức mới.
Đầu tư cơ sở vật chất, hoàn thiện hệ thống trưng bày
Trong hai thập niên 1990-2010, bảo tàng nhận được sự quan tâm đầu tư đáng kể về cơ sở vật chất. Không gian trưng bày được mở rộng cả trong nhà và ngoài trời, hình thành nên một hệ thống trưng bày chuyên đề phong phú, hiện đại.
Khu trưng bày ngoài trời tái hiện 6 vùng văn hóa, với kiến trúc dân tộc đặc trưng, không gian sống, sản xuất, lễ hội, phong tục…
![]() |
Không gian văn hóa ven biển miền Trung của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
|
![]() |
Không gian văn hóa vùng đồng bằng Bắc bộ, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam
|
Trưng bày trong nhà được hoàn thiện với nhiều chủ đề chuyên sâu, phản ánh sắc màu văn hóa, đời sống, tín ngưỡng, trang phục, nghề truyền thống của các cộng đồng dân tộc.
![]() |
Góc trưng bày về văn hóa các dân tộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, năm 1992
|
![]() |
Phòng trưng bày văn hóa các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, năm 1992.
|
![]() |
Phòng trưng bày văn hóa các dân tộc nhóm ngôn ngữ Mông – Dao và Nam Á, năm 1992.
|
Việc nâng cao chất lượng trưng bày đã tạo nên dấu ấn đặc biệt, biến bảo tàng trở thành “ngôi nhà” lưu giữ ký ức văn hóa, nơi khách tham quan có thể tiếp cận trực tiếp và sinh động với hiện vật, tư liệu và không gian văn hóa.
Sưu tầm hiện vật – Nuôi dưỡng “kho ký ức văn hóa”
Nhằm thực hiện sứ mệnh mới, bảo tàng tăng cường công tác sưu tầm hiện vật, tư liệu văn hóa. Nhiều chuyến khảo sát tại các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng Nam Bộ… đã đem về hàng ngàn hiện vật quý.
Những bộ trang phục cổ, nhạc cụ truyền thống, dụng cụ sản xuất, vật dụng sinh hoạt, đồ thờ tự… được tiếp nhận không chỉ là hiện vật trưng bày, mà còn là kho tư liệu sống, minh chứng cho chiều sâu văn hóa – lịch sử của cộng đồng 54 dân tộc.
![]() |
Ông Lục Văn Tư cán bộ Nghiên cứu, sưu tầm của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam với bà con dân tộc Mạ, ở huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, năm 1990
|
![]() |
Cán bộ Nghiên cứu, sưu tầm của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ghi chép thông tin, tư liệu về bà con dân tộc Pu Peo năm 1990.
|
Triển lãm lưu động – Mang bảo tàng đến với cộng đồng
Nếu nói đặc điểm nổi bật nhất của giai đoạn 1990-2010 thì đó chính là triển lãm lưu động. Đây là bước đổi mới lớn trong hoạt động tuyên truyền giáo dục của bảo tàng, thể hiện rõ tinh thần “diện kiến di sản thay vì chỉ nghe nói”.
Thực hiện chủ trương đưa văn hóa về cơ sở, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã tổ chức hơn 70 cuộc triển lãm lưu động, tại các thành phố lớn và nhiều vùng, đặc biệt là các khu vực ít có điều kiện tiếp cận bảo tàng, chủ yếu là đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Các chuyên đề triển lãm như trang phục dân tộc, đặc trưng văn hóa, bảo tồn di sản… đã tạo ấn tượng tốt đẹp, góp phần nâng cao dân trí tại các địa phương.
Triển lãm lưu động đã trở thành “cầu nối văn hóa”, giúp công chúng hiểu rõ hơn về bản sắc truyền thống, tạo nên niềm tự hào và ý thức bảo tồn.
![]() |
Trưng bày “Đặc trưng văn hóa nông thôn” của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, tại nhà Triển lãm Bộ Nông nghiệp, TP Hà Nội, năm 2001.
|
![]() |
Trưng bày của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, tại Trung tâm Triển lãm Vân Hồ, TP Hà Nội, năm 2000
|
![]() |
Triển lãm lưu động tại Trường Nội trú huyện Quản bạ, tỉnh Hà Giang, 1/2004. Học sinh đang trải nghiệm tập đánh đàn T`Rưng
|
Giao lưu giáo dục – Truyền lửa văn hóa đến thế hệ trẻ
Trong giai đoạn này, bảo tàng tổ chức nhiều chương trình giáo dục văn hóa thông qua hoạt động giao lưu, hội thảo, trình diễn nghệ thuật, giới thiệu nghề truyền thống. Nhiều thế hệ học sinh, sinh viên đã trải nghiệm, tìm hiểu văn hóa dân tộc từ những hoạt động “thật” với hiện vật thật, không gian thật, câu chuyện thật.
Qua đó, bảo tàng trở thành địa chỉ tin cậy trong công tác giáo dục truyền thống, góp phần bồi đắp lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Khẳng định vai trò của thiết chế văn hóa cấp quốc gia
Nhìn lại chặng đường 1990 – 2010, có thể khẳng định đây là giai đoạn bảo tàng bứt phá mạnh mẽ trên nhiều phương diện: tổ chức, trưng bày, sưu tầm, truyền thông, giáo dục cộng đồng.
Các hoạt động triển lãm lưu động rộng khắp, hệ thống trưng bày phong phú, cùng kho tư liệu hiện vật lớn đã giúp bảo tàng lan tỏa giá trị văn hóa đa dạng; Góp phần thắt chặt tình đoàn kết giữa các dân tộc và khẳng định vị thế “mái nhà chung” của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tự hào quá khứ – Vững bước tương lai
Kỷ niệm 65 năm thành lập, nhìn lại giai đoạn 1990 – 2010 là nhìn lại chặng đường nỗ lực bền bỉ, sáng tạo và giàu tâm huyết của các thế hệ cán bộ bảo tàng. Từ nền tảng đã xây dựng, bảo tàng tiếp tục phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trở thành điểm đến văn hóa đặc sắc, nơi di sản của 54 dân tộc Việt Nam được gìn giữ, lan tỏa và truyền lửa cho thế hệ mai sau.


















